Vả lại dường như người ta đã hiểu sai về tâm lý đám đông, khi tin vào ưu thế của các bản năng cách mạng của nó. Do bởi tôi đã luận giải vấn đề này một cách đầy đủ, cho nên tôi không muốn quay trở lại nữa và tôi chỉ muốn giới hạn trong một vài lời về những ý tưởng đã tiếp cận vào đám đông và đám đông đã tiếp nhận chúng ở những dạng nào. Những sự kiện quan sát được bởi một số đông người chắc chắn sẽ là những sự kiện đáng nghi ngờ nhất.
Để có thể phát hiện ra, rằng người ta không thể cải tạo một xã hội một cách triệt để với những phương tiện của lý trí thuần túy, đã cần phải có đến hàng triệu con người bị giết hại và cả châu u đã bị cào xới trong suốt hai chục năm trời. Như chúng ta đã thấy, đám đông không hề suy nghĩ, họ tiếp nhận hoặc vứt bỏ các ý tưởng một cách nhanh chóng, không dung thứ tranh luận và mâu thuẫn. Bởi thế, theo quan điểm xã hội học, trong thực tế không có sự cao thấp của các ý tưởng, có nghĩa là không có quan điểm này cao hơn quan điểm kia.
Trong nội bộ đám đông, các ý tưởng, tình cảm, những sự kích động, các tín điều được lây lan với một tốc độ nhanh chóng như của các loại vi trùng. Cái một thời được coi là một dân tộc, là một sự thống nhất, là một khối, cuối cùng sẽ trở nên một đám những kẻ riêng biệt chẳng còn liên quan gì đến nhau và chỉ được kết dính lại một cách nhân tạo qua những truyền thuyết và các thiết chế. Sự xóa bỏ này làm tắc nghẽn những cội nguồn của hy vọng và dâng hiến.
Tính không khoan dung, tính độc đoán và tính bảo thủ của đám đông Và dựa vào mức độ thường xuyên của các hành động tội ác như vậy họ đã đánh giá tính cách đạo đức của đám đông rất thấp. Ngay cả lúc người ta tưởng rằng giữa đám đông không hề có một thứ liên kết nào, thường cũng là lúc nó đang ở trong tình trạng căng thẳng chờ đợi, thuận lợi cho việc tiếp nhận một tác động nào đó vào nó.
Nếu một khi con người không còn thấy một sinh lực nào trong nó, lúc đó nó sẽ phải đi tìm kiếm ở một nơi khác. Những tình cảm này có những đặc trưng rất đơn giản: tôn sùng một đấng được cho là cao cả, khiếp sợ trước quyền lực bên trên, tuân thủ một cách mù quáng mệnh lệnh của quyền lực đó, không có khả năng đánh giá những giáo lý của nó, cố gắng truyền bá sâu rộng những giáo lý đó, có xu hướng coi tất cả những ai không chấp nhận giáo lý đó là kẻ thù. ” Họ khuất phục chỉ bởi vì, Hoàng đế là tượng trưng cho La mã, được tất cả tôn thờ như thánh.
Chính điều này đã làm cho Lamartine năm 1848 và Thiers năm 1871 đạt được sự tín nhiệm mà đáng lý ra tầm quan trọng và cấp thiết của vấn đề mới là động cơ thúc đẩy. Sau khi chiếm được ngục, đám đông giận dữ đã vây quanh ông giám đốc và đánh ông ta từ đủ mọi phía. Khó khăn ở chỗ, là tìm được điểm cân bằng giữa bảo tồn và thay đổi.
(Dịch ngược, đáng lẽ phải là, “đất nước mà người ta cho rằng đã quá chán ngán sự chuyên chế của ông ta”). Đám đông lúc này đội lốt một tín ngưỡng hoặc một lãnh tụ bách chiến bách thắng, làm cho họ say mê, với cùng một quyền lực huyền bí. Một nhà văn đã viết những dòng sau về tầm ảnh hưởng của ông ta:
mà ý nghĩa của chúng rất không xác định, cho dù sử dụng đến cả tập giấy dày cũng không luận hết ý nghĩa của chúng. Dưới góc độ này tác động của nó cũng vô cùng lớn y như vậy. Theo tôi nghĩ, để có thể hiểu được chúng người ta phải cần tới ít nhất mười năm đi đây đó và quan sát.
tất cả đều là những hiện tượng cùng loại dưới tác động của tình cảm tôn giáo, nó cần thiết để hủy diệt tất cả, bằng lửa và bằng gươm đao, những gì cản trở sự truyền bá một niềm tin mới. Quyền lực của ngôn từ mạnh đến nỗi, chỉ cần khéo chọn những cái tên cũng đủ để có thể làm cho đám đông chấp nhận cả những sự việc đáng căm ghét nhất. Trong các công trình nghiên cứu về tội ác của đám đông, Tarde cũng đã xác định như vậy.
Thế nhưng nếu ta hiểu khái niệm đạo đức là những tính cách nhất định xuất hiện trong khoảnh khắc như sự hy sinh, sự tận tâm, lòng vị tha, sự xả thân, sự công tâm thì ta có thể nói: đám đông thường có thể có một tư cách đạo đức rất cao. Những kiểu lập luận như vậy luôn được các thuyết gia khéo nói sử dụng trước đám đông. Những ai dựa vào đám đông sẽ leo lên rất nhanh, tuy nhiên họ lúc nào cũng như kẻ đứng bên bờ vực trên núi Tarpeji, với một điều chắc chắn rằng một ngày nào đó sẽ bị rơi xuống dưới.