Với sách mô tả, bạn thường đặt câu hỏi về ngữ pháp và logic. Tương tự, nếu bạn có thể đọc một cuốn sách dài về lịch sử, triết học, hay một chuyên luận về khoa học thì việc đọc báo hay bản tóm tắt cùng lĩnh vực đó sẽ chỉ là chuyện nhỏ. Nếu hoạt động dạy không có hoạt động tương hỗ là học thì dạy chẳng có giá trị gì.
Ví dụ, các em học sinh lớp một nhìn thấy một tập hợp các dấu hiệu màu đen trên nền giấy trắng, các dấu hiệu đó có nghĩa là Con mèo ngồi trên chiếc mũ. Những cuốn sách chính thống là những cuốn chỉ có một và chỉ một cách hiểu đúng. Rất nhiều người biết tên cuốn sách này ngay cả khi họ không có sách trong tay.
Nếu bạn nắm chắc kỹ năng và đã rất nỗ lực mà vẫn không thể nắm được tính chính thể của cuốn sách, không thể phân biệt được các phần và mối liên hệ giữa chúng thì rất có thể cuốn sách bạn đang đọc là một cuốn sách tồi, dù nó có tiếng tăm thế nào. Khi đánh giá phê bình, bạn cần nêu ra cả ý kiến tán thành và ý kiến phản đối. Không phải số lượng câu hỏi mà chính bản chất của câu hỏi khiến trẻ em khác người lớn.
Aristotle đã viết: Thi ca triết học nhiều hơn so với lịch sử. Để biết bất cứ điều gì, chúng ta phải vận dụng khả năng đánh giá và lý luận. Mặc dù, không thể đặt suy nghĩ của ta vào suy nghĩ của tác giả hoặc bắt họ nói những điều ta muốn, nhưng ta cũng không thể hoàn toàn phụ thuộc vào việc nhận được từ họ những nhận định tường minh giúp giải quyết vấn đề của ta.
Có thể kể đến trường hợp các bài phê bình đối với cuốn Poetics (Thơ ca) của Aristotle như một ví dụ tiêu biểu. Richards đã viết một loạt chuyên luận với tiêu đề How to read a page (Cách đọc một trang sách). Nếu tác giả dùng một từ theo nghĩa này mà độc giả lại hiểu nó theo nghĩa khác, tức là hai bên hoàn toàn không có sự thống nhất về ý niệm mặc dù đã có sự chuyển giao ngôn từ.
Lợi ích của hình thức đọc này lớn đến mức có thể bù đắp những khó khăn khi học cách thực hiện nó. Lúc đó, bạn sẽ chỉ đọc các từ chứ không tiếp nhận được tri thức. Theo Aristotle, triết học bắt nguồn từ sự thắc mắc và bắt đầu từ thời thơ ấu, mặc dù đối với đa số chúng ta triết học cũng đã chất dứt từ thời thơ ấu.
Sau khi nêu ra quan điểm của mình về vấn đề đó, ông trả lời đáp lại mỗi lý lẽ sai của câu trả lời sai. Việc lồng ghép các ẩn dụ thường làm cho nội dung tác phẩm có thêm nhiều lớp nghĩa chứ không chỉ nằm trong các từ ngữ viết nên tác phẩm. Hiếm khi có tác giả nào một mình một quan điểm trong tình huống gây tranh luận.
Điều này giải thích tại sao các tác giả thường thay thế một từ đơn lẻ bằng một cụm từ khá chi tiết khi muốn diễn đạt dễ hiểu. Kiểu độc giả thứ hai không đặt câu hỏi và không có câu trả lời. Bản chất của các vấn đề liên quan đến thực hành là phải thuyết phục con người tư duy và làm theo một hướng nhất định.
Vì thế, điều cần thiết ở đây là một cuốn sách tham khảo chỉ cho bạn biết những phần liên quan đến các vấn đề bạn quan tâm nằm ở đâu mà không nhắc bạn phải đọc những phần đó thế nào, tức là không đánh giá trước ý nghĩa hoặc ý chính của những đoạn đó. Tên sách, tiêu đề mỗi chương và lời đề từ cũng phần nào giúp ích cho việc phân loại đó. Không có gì đáng ngạc nhiên nếu bạn đọc một cuốn sách nhằm nâng cao nhận thức mà bạn không thể hiểu hết các từ trong sách.
Đúng là có một số bài như vậy. Ví dụ, bạn không thể tìm thấy những câu hỏi về đạo đức hoặc về tương lai trong sách tham khảo. Khi có sự bất đồng với tác giả, bạn cần có đủ ba điều kiện dưới đây để lập luận cho sự bất đồng của mình.